Du lịch Huế - Thăm ngôi chùa Từ Hiếu độc đáo bậc nhất xứ Huế
Chùa tọa lạc trên một khu đồi núi thấp khá bằng phẳng, phía trước cổng chùa là một khu đồi thông xanh mát, bên cạnh có một con suối nhỏ trong vắt quanh năm nước chảy tạo cho nơi đây phong cảnh trầm mặc, thanh tịnh đậm chất chốn thiền môn.
Bước qua cổng tam quan của chùa là một hồ bán nguyệt nước trong vắt phản chiếu bóng hình rêu phong cổ kính cùng từng đàn cá to tung tăng bơi lội... Tất cả, tạo nên một bức tranh phong thủy rất đỗi hữu tình.
Tại sao chùa mang tên Từ Hiếu?
Chuyện bắt đầu từ cuộc đời một nhà sư có pháp danh là Nhất Định. Năm 1843, sau khi từ chức Tăng Cang Giác Hoàng Quốc Tự và trao quyền trụ trì chùa Bảo Quốc cho pháp đệ là Nhất Niệm, nhà sư Nhất Ðịnh đã dựng lên Thảo Am An Dưỡng để tịnh tu và dưỡng mẹ già. Một ngày nọ, mẹ của nhà sư Nhất Định bị bệnh rất nặng. Nhà sư lo thuốc thang, hết lòng chăm sóc nhưng bệnh tình của mẹ vẫn không khỏi. Có người khuyên nhà sư nên mua thêm thịt cá để tẩm bổ cho mẹ, bởi mẹ nhà sư đã quá suy nhược cơ thể.
Nghe xong, mặc thiên hạ đàm tiếu chê bai, sư Nhất Định vẫn chống gậy băng rừng lội suối, xuống chợ cách Thảo Am An Dưỡng hơn 5km để mua cá mang về nấu cháo cho mẹ tẩm bổ. Câu chuyện của sư Nhất Định đến tai Tự Đức vốn là một vị vua rất hiếu thảo với mẹ. Vua Tự Đức rất cảm phục trước tấm lòng của sư Nhất Định nên đã ban tên Từ Hiếu tự cho Thảo Am An Dưỡng và ban tiền để tu sửa lại. “Thảo Am An Dưỡng” được mang tên chùa Từ Hiếu từ đó.
Vào các ngày rằm, chùa Từ Hiếu luôn đông đúc các thiện nam, tín nữ lên chùa bái Phật, cầu sức khỏe cho ba mẹ, ông bà. Chùa Từ Hiếu trở thành ngôi chùa nổi tiếng của Huế chính là vì lý do cảm động này.
Ảnh: Chùa Từ Hiếu hiện nay là một điểm đến hấp dẫn của rất nhiều du khách trong và ngoài nước
Nghĩa trang Thái Giám
Ngoài lịch sử lâu đời cùng với kiến trúc độc đáo mang đậm nét đặc trưng của vùng đất cố đô, chùa Từ Hiếu còn nổi tiếng với một nghĩa trang “độc nhất vô nhị”. Nghĩa trang này là nơi chôn cất các quan thái giám của triều Nguyễn năm xưa. Cũng chính vì lẽ đó nên ngoài tên gọi Từ Hiếu, chùa còn có các tên gọi khác như “chùa Thái giám” hay “chùa Hoạn quan”.
Ảnh: Hồ bán nguyệt sau Cổng Tam Quan của chùa
Nằm cách chính điện khoảng 50m về phía bên trái của chùa Từ Hiếu chính là khu mộ địa của các quan thái giám với hơn 20 ngôi mộ được chia thành 3 dãy rõ rệt, phía trên mỗi bia mộ đều có khắc tên tuổi, quên quán, pháp danh, chức vụ và ngày mất của từng vị thái giám. Hằng năm, cứ đến ngày rằm tháng 11 âm lịch, nhà chùa lại đứng ra tổ chức ngày giỗ chung để tưởng nhớ đến công đức những người đã mất, trong đó có các quan thái giám triều Nguyễn có phần công đức tại chùa.
Ảnh: Cổng Tam Quan - Chùa Từ Hiếu
Bí ẩn số phận các vị Thái Giám chốn cung đình Việt Nam
Thái giám, hay hoạn quan là một chức quan tuy địa vị thấp nhưng chiếm vị trí quan trọng trong hậu cung xưa. Cuộc đời của họ ngoài những thăng trầm biến cố theo thời cuộc, còn phải chịu thêm đủ nỗi nặng nề, thương tâm. Một trong số đó là cảm giác đơn độc, cô quạnh cho tới lúc nhắm mắt xuôi tay.
Chấp nhận "tịnh thân" đổi lấy vinh dự cho dòng tộc
Vốn từ tiếng Việt nhắc tới những vị thái giám với vô số danh từ điển hình như quan hoạn, quan thị, quan giám. Trong những từ đó đã bao hàm cả những khiếm khuyết về thể năng không thể bù đắp của những thái giám. Không hiếm người làm thái giám bởi khi sinh ra họ đã phi nam phi nữ, không có bộ phận sinh dục của đàn ông hoặc đàn bà.
Nhưng phần đông là những người tự nguyện “tịnh thân” đặng thiến bộ phận sinh dục để được vào hầu hạ trong cung. Bởi thân làm thái giám, họ đã có thể giúp cả họ, cả tổng được nhờ. Cái nhờ ấy lớn lao tới mức nhiều gia đình sẵn sàng hi sinh dòng giống nối dõi của gia tộc cho sự "cả làng còn nhờ", để đổi lấy vinh quang và sự tôn trọng của mọi người. Nhiệm vụ chính của các thái giám thường là tổ chức và quản lý chốn hậu cung, cùng một số chuyện tế nhị khác.
Thái giám trong lịch sử Việt Nam tồn tại dưới các đời Lý, Trần, Lê, Nguyễn. Do không có bộ phận sinh dục nên con người của thái giám tiếng nói cũng như tính cách rụt rè thiên về nữ nhiều hơn nam. Suốt đời họ phụng sự trong cung và lớn lên họ kết nghĩa với nhau, có thể cùng giới hoặc khác giới.
Họ dùng sức đàn ông để phục vụ những việc nặng nề, sai bảo ở trong cung, nhưng trong cung toàn phụ nữ không chồng hoặc chỉ một ông chồng…Cũng bởi môi trường sống và tâm lý phức tạp nên không ít nghiên cứu về các thái giám còn được sử dụng trong nghiên cứu về đồng tính luyến ái ngày nay.
Song hành cùng lịch sử dẫu bị chối bỏ công lao
Cũng do có thuận lợi được sống gần “thiên tử”, được nhiều ân sủng và nắm được những “thâm cung bí sử” trong triều nên thường họ cùng liên kết với nhau để thực hiện âm mưu nào đó. Không ít triều đình rối ren, thậm chí bị đảo chính cũng là có phần góp sức không nhỏ của thái giám.
Rút kinh nghiệm từ những bậc tiền bối bị thái giám nổi loạn chuyên quyền, thời vua Minh Mạng (1820 – 1841) đã ban hẳn một chiếu chỉ riêng dành cho thái giám: “Cho họ người nào việc ấy để sai khiến hầu hạ nhưng mãi mãi không cho dự vào giai và phẩm hàm quan chức.
Vì chức vụ của họ là để nội đình sai khiến và truyền lệnh mà thôi. Tất cả triều chính và việc ngoài đều không được tham dự, kẻ nào vi phạm phải trừng trị nặng, không khoan tha. Trẫm đã dặn dò, hết sức mưu tính sâu xa cho đời sau…”.
Sống quạnh hiu, chết nương nhờ cửa Phật
Tại Huế, bên cạnh những lăng tẩm lỗng lấy, không mấy người không biết tới chùa Từ Hiếu. nơi nương mình lặng lẽ của những người hầu cận vốn chiếm vai trò khá quan trọng trong cung đình xưa, nhưng tên tuổi cũng như vị trí của họ chưa bao giờ được đề cao. Họ là những thái giám chốn hậu cung.
Ngôi chùa là nơi “cưu mang” các quan thái giám trong triều Nguyễn, vốn không có con nối dõi, họ bày tỏ nguyện vọng với nhà vua, sau khi nhắm mắt xuôi tay, họ được chôn trong ngôi chùa này đặng có người lo hương khói.
Cảm thông với ước nguyện chính đáng này, vua Tự Đức đã xuống chỉ dụ chấp thuận. Họ đã đóng góp công đức vào ngôi chùa, để sau khi chết họ được mai táng, phục tự và cúng giỗ nơi này.
Nhiều mảnh đời chung tâm nguyện nhỏ nhoi
Về cuối đời, các thái giám triều Nguyễn lúc bấy giờ phải cư trú ở một ngôi nhà phía Bắc hoàng thành gọi là Cung giám viện. Khi chết, số phận họ vô cùng bi thảm, không được chôn gần lăng tẩm hoặc những chốn linh thiêng và cũng chẳng được ai thờ cúng vì không có con cháu. Để tránh bát hương trở nên lạnh lẽo khi “về trời”, nhiều người đã chọn con nuôi để dạy dỗ và lo hậu sự về sau.
Theo tục lệ, cứ đến rằm tháng 11 hàng năm, chùa Từ Hiếu lại tổ chức ngày giỗ chung để tưởng nhớ những người đã mất, trong đó có thái giám triều Nguyễn. Có lẽ, một phần nhờ sự lãng quên của người đời, mà mặc dù trải qua các giai đoạn chiến tranh ác liệt nhưng phần lớn những ngôi mộ này vẫn nguyên vẹn và đa phần đều đọc được rõ chữ.
Theo lời dịch lại của một sư cụ trong chùa, thì xúc động nhất là lời lẽ trên tấm bia trước cổng nghĩa trang khiến hậu thế không khỏi chạnh lòng: Bia đề: “Trong đời sống, chúng tôi tìm thấy ở đây sự yên bình. Khi ốm đau, chúng tôi lui về đây và sau khi chết, chúng tôi sẽ được chôn chung ở đây. Dù sống hay chết, chúng tôi vẫn tìm thấy được ở đây sự yên bình”.
Phận đời đưa đẩy đã khiến nhiều thái giám có một nỗi sợ mãnh liệt lớn hơn cả cái chết, chết ở đâu, chết lúc nào… theo họ giờ không quan trọng mà quan trọng nhất là được chết toàn thây, được chết cạnh cái mà mình đã cắt bỏ đi để khi về thế giới bên kia mình được chứng nhận là đã trải qua một kiếp con người. Đó cũng là cái kết “đáng buồn thay” cho cuộc đời của những con người “sinh ra chẳng được mấy ai chấp nhận”.
N.H